
Quá trình xây dựng Luật
Luật Tổ chức CQĐP được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 9 khoá XIII ngày 19/6/2015, thay thế Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân (HĐND) và Uỷ ban nhân dân (UBND) năm 2003.
Trước khi Quốc hội thông qua, Dự án Luật đã được sự tham gia của các cơ quan, các nhà khoa học và ý kiến của nhân dân trên cơ sở các cuộc hội thảo, toạ đàm, đăng tải Toàn văn trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ, Trang thông tin điện tử của Bộ Nội vụ. Luật này ban hành trên cơ sở tổng kết quá trình hoạt động của HĐND và UBND trong những năm qua, nhất là từ năm 2003- năm ban hành Luật Tổ chức HĐND và UBND đến nay; có sự tham khảo, nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc các mô hình tổ chức chính quyền địa phương các nước.
Khái niệm chính quyền địa phương được sử dụng ở Việt Nam từ trong các cuộc hội thảo, bài viết, các công trình nghiên cứu… Tuy nhiên khái niệm này chỉ được sử dụng chính thức trong Hiến pháp năm 2013 và trong Luật Tổ chức CQĐP lần này. Có thể hiểu chính quyền địa phương là một tổ chức hành chính có tư cách pháp nhân được Hiến pháp và pháp luật công nhận sự tồn tại vì mục đích quản lý một khu vực, nằm trong một quốc gia.
Giới thiệu chung
Luật Tổ chức CQĐP có 8 chương, 143 điều, trong đó:
Chương 1: Những quy định chung, gồm 15 điều, từ điều 1 đến điều 15
Chương 2: Chính quyền địa phương ở nông thôn, có 21 điều, từ điều 16 đến điều 36
Chương 3: Chính quyền địa phương ở đô thị, có 35 điều, từ điều 37 đến điều 71
Chương 4: Chính quyền địa phương ở hải đảo. có 2 điều, từ điều 72 đến điều 73
Chương 5: Chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt, có 4 điều, từ điều 74 đến điều 77
Trong các chương trên, từ chương 2 đến chương 5 trình bày cơ bản theo cấu trúc:
- Chính quyền địa phương theo đơn vị hành chính
- Nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP
- Cơ cấu tổ chức của HĐND
- Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND
- Cơ cấu, tổ chức của UBND
- Nhiệm vụ, quyền hạn của UBND
- Nhiệm vụ, quyền hạn của chủ tịch UBND
Chương 6: Hoạt động của chính quyền địa phương. Chương này có 50 điều từ điều 78 đến điều 127. Đây là chương dài nhất vì trong đó quy định hoạt động của HĐND, UBND, các Ban của HĐND, các cơ quan chuyên môn của UBND, trụ sở, kinh phí, bộ máy giúp việc của chính quyền địa phương.
Chương 7: Thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính. Có 12 điều từ điều 128 đến điều 139.
Chương 8: Điều khoản thi hành, có 4 điều, từ điều 140 đến điều 143.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương có một số điểm mới nổi bật:
1. Luật Tổ chức CQĐP có 8 chương, 143 điều, nhiều hơn Luật Tổ chức HĐND và UBND 2 chương 3 điều
Luật này có phạm vi điều chỉnh rộng hơn, bao gồm các đơn vị hành chính, chính quyền địa phương, HĐND và UBND, Luật Tổ chức HĐND và UBND chỉ điều chỉnh Tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND.
Do phạm vi điều chỉnh rộng hơn nên cấu trúc Luật Tổ chức CQĐP cũng rất khác với Luật Tổ chức HĐND và UBND. Cấu trúc của Luật này đã trình bày ở trên, cấu trúc của Luật Tổ chức HĐND và UBND như sau:
Chương 1: Những quy định chung, có 11 điều
Chương 2: Hội đồng nhân dân, có 46 điều
Chương 3: Hoạt động giám sát của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và đại diện HĐND, có 25 điều
Chương 4: Uỷ ban nhân dân, có 49 điều
Chương 5: Tổ chức HĐND và UBND trong trường hợp thay đổi cấp hoặc địa giới của các đơn vị hành chính và trong trường hợp đặc biệt, có 7 điều
Chương 6: Điều khoản thi hành, có 3 điều.
2. Xác định các đơn vị hành chính (Điều 2).
Theo đó, có 4 đơn vị hành chính
- Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chunglà cấp tỉnh);
- Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện);
- Xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chunglà cấp xã);
- Đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt.
Như vậy, so với Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã bổ sung thêm đơn vị hành chính: thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
3. Phân loại đơn vị hành chính (Điều 3)
- Phân loại đơn vị hành chính là cơ sở để huy động chính sách phát triển kinh tế- xã hội; xây dựng tổ chức bộ máy, chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức của chính quyền địa phương nhưng phù hợp với từng loại đơn vị hành chính.
- Phân loại đơn vị hành chính phải dựa trên các tiêu chí về quy mô dân số, diện tích tự nhiên, số đơn vị hành chính trực thuộc, trình độ phát triển kinh tế- xã hội và các yếu tố đặc thù của từng loại đơn vị hành chính ở nông thôn, đô thị, hải đảo.
- Các đơn vị hành chính được phân loại như sau:
+ Thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị hành chính cấp tỉnh loại đặc biệt; các đơn vị hành chính cấp tỉnh còn lại được phân thành ba loại: loại I, loại II và loại III;
+ Đơn vị hành chính cấp huyện được phân thành ba loại: loại I, loại II và loại III;
+ Đơn vị hành chính cấp xã được phân thành ba loại: loại I, loại II và loại III.
+ Luật giao cho Chính phủ căn cứ vào khoản 2 và khoản 3 Điều 3 Luật này trình Ủy ban thường vụ Quốc hội; quy định cụ thể tiêu chuẩn của từng tiêu chí, thẩm quyền, thủ tục phân loại đơn vị hành chính.
4. Về mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính:
Điều 4 Luật này quy định cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức ở các đơn vị hành chính quy định tại Điều 2. Trong đó:
- Chính quyền địa phương ở nông thôn gồm chính quyền địa phương ở tỉnh, huyện, xã.
- Chính quyền địa phương ở đô thị gồm chính quyền địa phương ở thành phố trực thuộc trung ương, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phường, thị trấn.
2.2.5. Về phân định thẩm quyền, phân quyền, phân cấp cho chính quyền địa phương và uỷ quyền cho cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (Điều 11, 12, 13 và 14).
Luật quy định các điều kiện, nguyên tắc để xác định thẩm quyền (nhiệm vụ, quyền hạn), phân quyền, phân cấp cho chính quyền địa phương và uỷ quyền cho cơ quan hành chính nhà nước địa phương. Những quy định này mặc dù còn phải được cụ thể hoá trong các Luật chuyên ngành khi quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương trong việc giải quyết các vấn đề của địa phương song các quy định này thể hiện việc đổi mới rất quan trọng theo hướng xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương nhằm phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương.
6. Về nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của chính quyền địa phương, HĐND, UBND:
- Luật quy định cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức ở các đơn vị hành chính. Theo đó:
+ Cấp tỉnh: Điều 16, 17
+ Cấp thành phố trực thuộc trung ương: Điều 37, 38
+ Cấp huyện: Điều 23, 24
+ Cấp thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương: Điều 44, 45
+ Cấp quận: Điều 51, 52
+ Cấp xã: Điều 30, 31
+ Cấp phường: Điều 58, 59
+ Cấp thị trấn: Điều 65, 66
- Về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp: Luật quy định những nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương (HĐND và UBND) các cấp để bảo đảm gắn kết thống nhất giữa HĐND và UBND cùng cấp trong chỉnh thể chính quyền địa phương theo quy định của Hiến pháp 2013. Những nhiệm vụ quyền hạn được phân cấp và những những nhiệm vụ, quyền hạn được uỷ quyền (trong những trường hợp cần thiết); đồng thời quy định các nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và UBND trong từng loại hình đơn vị hành chính: nông thôn, đô thị, hải đảo.
- Đối với HĐND các cấp, Luật quy định rõ hơn về cơ cấu tổ chức của HĐND, tạo cơ sở pháp lý để củng cố, hoàn thiện tổ chức và năng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND. Cụ thể:
+ Quy định tiêu chuẩn, số lượng đại biểu HĐND các cấp, số lượng đại biểu HĐND căn cứ theo số lượng dân cư và các vùng, miền… theo hướng tăng số lượng đại biểu HĐND ở đơn vị hành chính thị xã. Luật cũng quy định số lượng đại biểu HĐND của thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là 105 đại biểu (trước đây 95 đại biểu) để phù hợp với quy mô dân số, đặc điểm tính chất của các đô thị này.
+ Quy định HĐND thành phố trực thuộc trung ương được thành lập thêm Ban đô thị (trước có 3 Ban: Pháp chế, văn hoá- xã hội, kinh tế- ngân sách), vì đây là những đô thị tập trung, có quy mô lớn, mức độ đô thị hoá cao và có nhiều điểm đặc thù khác với các địa bàn đô thị thành phố thuộc tỉnh.
+ Quy định HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, nơi nào có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số thì thành lập Ban dân tộc. Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định tiêu chuẩn, điều kiện thành lập Ban dân tộc theo quy định của Luật này.
+ Quy định về chức danh chủ tịch, phó chủ tịch HĐND các cấp và số lượng phó chủ tịch HĐND các cấp. Theo đó, HĐND cấp tỉnh có chủ tịch, 2 phó chủ tịch (trước có 1 phó chủ tịch). HĐND cấp xã có chủ tịch, phó chủ tịch. Bỏ chức danh uỷ viên thường trực ở HĐND cấp tỉnh, cấp huyện.
+ Quy định về thường trực HĐND: ở cấp tỉnh gồm có chủ tịch, 2 phó chủ tịch và các uỷ viên là các trưởng các Ban của HĐND và chánh văn phòng HĐND; ở cấp huyện có chủ tịch, 2 phó chủ tịch và các uỷ viên là các uỷ viên là các trưởng Ban HĐND; ở cấp xã có chủ tịch và phó chủ tịch HĐND.
+ Quy định về chế độ chuyên trách của chủ tịch HĐND, phó chủ tịch HĐND và truỏng Ban của HĐND các cấp, theo đó: Chủ tịch HĐND cấp tỉnh, cấp huyện có thể là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách; phó chủ tịch HĐND cấp tỉnh, cấp huyện là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách; ở cấp xã phó chủ tịch HĐND hoạt động chuyên trách, trưởng Ban HĐND cấp tỉnh, cấp huyện có thể hoạt động chuyên trách, phó trưởng Ban HĐND cấp tỉnh, cấp huyện hoạt động chuyên trách. Trưởng, phó Ban HĐND cấp xã hoạt động kiêm nhiệm.
+ Quy định tăng cường vai trò của cơ quan thường trực của HĐND, quy định rõ Thường trực HĐND họp định kỳ tháng 1 lần.
- Đối với Uỷ ban nhân dân:
+ Quy định giao Chính phủ quy định cụ thể số lượng thành viên UBND các cấp; quy định kết quả bầu cử chủ tịch, phó chủ tịch UBND do người đứng đầu cơ quan hành chính cấp trên trực tiếp phê chuẩn; đối với chức danh uỷ viên UBND thực hiện nhiệm vụ ngay sau khi được HĐND cùng cấp bầu và ra nghị quyết xác nhận kết quả bầu cử (không phê chuẩn kết quả bầu cử như hiện nay).
+ Phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể UBND và chủ tịch UBND theo hướng đề cao trách nhiệm của chủ tịch UBND trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình và trong việc điều động, đình chỉ chức vụ đối với chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp và chỉ định các chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp
+ Quy định về cơ quan chuyên môn: Được UBND uỷ quyền thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà nước ở địa phương; quy định người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND và chánh văn phòng UBND do chủ tịch UBND bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi có nghị quyết của HĐND cùng cấp bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm uỷ viên UBND. Quy định người đứng đầu của các cơ quan chuyên môn của UBND cấp nào cũng chính là uỷ viên UBND, thay cho quy định tại Luật Tổ chức HĐND và UBND chỉ giới hạn số lượng uỷ viên UBND ở mỗi cấp, vì thế có người đứng đầu cơ quan chuyên môn không phải là uỷ viên UBND. Quy định mới này nhằm phát huy trách nhiệm tập thể, đảm bảo nguyên tắc làm việc tập thể của UBND, bao quát đầy đủ các lĩnh vực chuyên môn và tạo điều kiện thực hiện quyền giám sát của HĐND các cấp với những người đứng đầu của cơ quan chuyên môn.
+ Quy định về thành viên UBND cấp xã gồm chủ tịch, các phó chủ tịch và các uỷ viên là chỉ huy trưởng quân sự, trưởng công an.
+ Quy định về số lượng phó chủ tịch UBND các cấp theo phân loại các đơn vị hành chính. Theo đó, đối với đơn vị hành chính cấp tỉnh loại đặc biệt (thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) có không quá 5 Phó Chủ tịch, loại I có không quá 4 Phó Chủ tịch, loại II và loại III có không quá 03 Phó Chủ tịch. Đối với đơn vị hành chính cấp huyện loại I có không quá 03 Phó Chủ tịch, loại II và loại III có không quá 2 Phó Chủ tịch. Đối với đơn vị hành chính cấp xã loại I có không quá 2 Phó Chủ tịch, loại II và loại III có 1 Phó Chủ tịch.
+ Quy định rõ việc điều động, cách chức chủ tịch, phó chủ tịch UBND. Căn cứ quy định tại Hiến pháp năm 2013, Luật này quy định: Thủ tướng Chính phủ quyết định cách chức Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND cấp tỉnh; Chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp huyện quyết định cách chức Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp. Người được điều động hoặc bị cách chức chấm dứt việc thực hiện nhiệm vụ Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND kể từ khi quyết định điều động, cách chức có hiệu lực. Người quyết định điều động, cách chức Chủ tịch UBND giao quyền Chủ tịch UBND; thông báo cho HĐND về việc điều động, cách chức Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND, giao quyền Chủ tịch UBND để HĐND bầu Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND mới tại kỳ họp gần nhất.
7. Về việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính
Luật này quy định khi có trên 50% tổng số cử tri trên địa bàn đồng ý với đề án thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính thì cơ quan xây dựng đề án mới được hoàn thiện đề án, trình HĐND các cấp thông qua chủ trương. Luật còn quy định thẩm quyền đặt tên, đổi tên đơn vị hành chính và giải quyết tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính giữa các đơn vị hành chính. Theo đó, Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính cấp tỉnh, đặt tên, đổi tên đơn vị hành chính cấp tỉnh, giải quyết tranh chấp liên quan đến địa giới đơn vị hành chính cấp tỉnh; Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã, đặt tên, đổi tên đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã, giải quyết tranh chấp liên quan đến địa giới đơn vị hành chính cấphuyện, cấp xã.
8. Luật Tổ chức CQĐP quy định điều kiện đảm bảo cho hoạt động của chính quyền địa phương, hiệu lực thi hành của Luật như trụ sở làm việc, kinh phí và bộ máy giúp việc của chính quyền địa phương.
9. Chương 8 của Luật này điều 140 quy định bổ sung sửa đổi điều 4 của Luật Quy hoạch đô thị cho phù hợp với quy định của Luật này về phân loại đô thị. Theo đó, bỏ khoản 2 điều 4 Luật quy hoạch đô thị quy định về việc xác định cấp quản lý hành chính đô thị.
Điều 142 Luật này quy định về điều khoản chuyển tiếp. Theo đó, từ ngày Luật này hiệu lực (01/01/2016) đến khi bầu ra HĐND và UBND nhiệm kỳ 2016 - 2021, HĐND, UBND tại các đơn vị hành chính tiếp tục giữ nguyên cơ cấu tổ chức và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003.
Chấm dứt việc thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường theo Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội, Nghị quyết số 724/2009/UBTVQH12 của Ủy ban thường vụ Quốc hội kể từ ngày01/01/2016. UBND huyện, quận, phường nơi không tổ chức HĐND huyện, quận, phường tiếp tục giữ nguyên cơ cấu tổ chức và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội và Nghị quyết số 725/2009/UBTVQH12 của Ủy ban thường vụ Quốc hội cho đến khi bầu ra chính quyền địa phương ở huyện, quận, phường theo quy định của Luật này.
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét