Điều chỉnh địa giới hành chính là cụm từ thường được dùng chung cho việc thành lập, giải thể, sáp nhập, chia tách, điều chỉnh địa giới, đổi tên đơn vị hành chính của cấp có thẩm quyền. Trong nhiều năm qua, Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật quy định về việc điều chỉnh địa giới hành chính. Tuy nhiên cho đến nay, có những văn bản quy định về tiêu chuẩn, điều kiện, trình tự, thủ tục điều chỉnh địa giới hành chính ban hành đã nhiều năm, do vậy nhiều nội dung, quy định đã không còn phù hợp, không đáp ứng yêu cầu quản lý trong thực tiễn.
1.1 Nguyên tắc và thẩm quyền điều chỉnh địa giới hành chính
Từ năm 2013 trở về trước, việc điều chỉnh địa giới hành chính ở nước ta tuân thủ theo Hiến pháp 1992 và các luật, văn bản dưới luật có liên quan. Theo Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, các đơn vị hành chính được phân định như sau:
“Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã; huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường”.
Quốc hội có thẩm quyền: “thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt”.
Chính phủ có thẩm quyền: “Quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.
Ngày 28/11/2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua bản Hiến pháp sửa đổi năm 2013, theo đó các đơn vị hành chính được phân định như sau:
“Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập”.
Quốc hội có thẩm quyền: “thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt”.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thẩm quyền: “Quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.
Chính phủ có nhiệm vụ: “Trình Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.
Hiến pháp 2013 cũng quy định rõ việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định.
Như vậy, thẩm quyền về điều chỉnh địa giới hành chính đối với cấp tỉnh vẫn do Quốc hội quyết định nhưng thẩm quyền điều chỉnh địa giới hành chính cấp huyện, cấp xã đã được nâng lên, do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định chứ không phải do Chính phủ quyết định như trước đây nữa. Quy định này giúp cho việc điều chỉnh địa giới hành chính cấp huyện, cấp xã được tiến hành chặt chẽ hơn, chính xác hơn, dân chủ hơn và đặc biệt sẽ giảm thiểu việc điều chỉnh địa giới hành chính như thời gian qua.
1.2. Một số văn bản quy định về tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục điều chỉnh địa giới hành chính
a/ Ngày 31/01/1979, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng ban hành Thông tư số 19-BT về việc điều chỉnh địa giới các huyện, xã và các đơn vị tương đương thuộc các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Thông tư đã quy định các nguyên tắc, tiêu chuẩn về chia lại địa giới huyện, xã và kế hoạch tiến hành. Theo đó, việc điều chỉnh địa giới hành chính phải bảo đảm sự đoàn kết và tôn trọng truyền thống của nhân dân các dân tộc, bảo đảm sự chỉ đạo của cơ quan chính quyền được sát dân, sát cơ sở, nhạy bén, kịp thời và thuận tiện cho việc xây dựng lực lượng, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội; bảo đảm điều kiện thuận lợi để phát triển văn hóa xã hội chủ nghĩa, phát triển phúc lợi tập thể và tổ chức đời sống của nhân dân một cách văn minh. Việc chia lại huyện, xã và các đơn vị tương đương phải nắm vững tiêu chuẩn về diện tích và số dân, bảo đảm sự phù hợp với cơ sở vật chất, kỹ thuật và trình độ quản lý của cán bộ. Khi cần sáp nhập huyện, xã phải nhập cả đơn vị, không xé lẻ các xã, thôn, xóm ấp. Đồng thời, Thông tư đã quy định cụ thể quy mô diện tích tự nhiên và dân số theo loại hình đơn vị hành chính: huyện, quận, thị xã, thành phố, xã, thị trấn, phường, tiểu khu và theo các vùng, miền trên cả nước.
b/ Ngày 12/9/1981, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số 64b/HĐBT về điều chỉnh địa giới hành chính đối với những huyện, xã có địa giới chưa hợp lý. Quyết định số 64b/HĐBT đã có những quy định cụ thể hơn về tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục điều chỉnh địa giới hành chính cấp huyện, cấp xã và cho đến nay (hơn 30 năm), vẫn đóng vai trò là văn bản tham chiếu, vận dụng chủ yếu khi các địa phương đề nghị điều chỉnh địa giới hành chính cấp huyện, cấp xã.
c/ Ngày 26/9/1981, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 94/HĐBT về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy chính quyền cấp phường đã quy định phường là đơn vị hành chính cơ sở ở nội thành, nội thị, tổ chức theo khu vực dân cư ở đường phố, có khoảng 7.000 đến 12.000 dân.
d/ Ngày 06/11/1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành Chỉ thị số 364-CT về giải quyết những tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính tỉnh, huyện, xã. Theo đó, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong công tác giải quyết tranh chấp là hiệp thương thỏa thuận giữa cấp ủy, chính quyền các địa phương có liên quan; cấp có thẩm quyền chỉ xem xét, ban hành các quyết định giải quyết trong trường hợp cấp ủy, chính quyền các địa phương liên quan hiệp thương, thỏa thuận không có kết quả.
đ/ Thông tư số 832/TCCP-ĐP ngày 25/10/1993 của Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) hướng dẫn giải quyết tranh chấp đất đai có liên quan đến địa giới hành chính các cấp trong tổ chức thực hiện Chỉ thị số 364-CT ngày 06/11/1991.
e/ Quyết định số 12/2008/QĐ-BTNMT ngày 18/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành "Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phân định địa giới hành chính và lập hồ sơ địa giới hành chính các cấp".
g/ Nghị định số 62/2011/NĐ-CP ngày 26/7/2011 của Chính phủ về thành lập thành phố thuộc tỉnh, thị xã, quận, phường, thị trấn. Nghị định đã quy định cụ thể điều kiện, tiêu chuẩn, trình tự lập, thẩm định hồ sơ thành lập thành phố thuộc tỉnh, thị xã, quận, phường, thị trấn.
h/ Ngày 15/6/2012, Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 02/2012/TT-BNV hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 62/2011/NĐ-CP ngày 26/7/2011 của Chính phủ về thành lập thành phố thuộc tỉnh, thị xã, quận, phường, thị trấn.
2. Thực trạng về điều chỉnh địa giới hành chính ở nước ta thời gian qua
Nhìn lại lịch sử, việc tổ chức các đơn vị hành chính - lãnh thổ dưới các triều đại phong kiến ở Việt Nam có nhiều biến động cả về quy mô và tên gọi các đơn vị hành chính. Các đơn vị hành chính dưới cấp trung ương có tên gọi và vị trí khác nhau trong hệ thống hành chính các cấp như châu, quận, đạo, lộ, phủ, thừa tuyên, dinh, tỉnh, huyện, giáp, hương, trấn, tổng, lý, xã,..) tùy theo từng giai đoạn. Cho đến năm 1832, vua Minh Mạng triều Nguyễn đã chia lại đất nước thành 30 tỉnh và 1 phủ Thừa Thiên. Sau khi Việt Nam giành được độc lập tháng 8/1945, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, theo Hiến pháp năm 1946, đất nước được chia làm ba Bộ: Bắc Bộ, Trung Bộ, và Nam Bộ. Giai đoạn 1945 - 1946, nước ta có 65 tỉnh. Năm 1975, Miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất và đến năm 1976, nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam có 38 đơn vị hành chính cấp tỉnh, gồm 35 tỉnh và 3 thành phố trực thuộc Trung ương. Cho đến tháng 6/2013, Việt Nam có 58 tỉnh, 5 thành phố trực thuộc Trung ương; 60 thành phố thuộc tỉnh, 46 thị xã, 47 quận, 550 huyện; 634 thị trấn, 1.461 phường, 9.052 xã. (Nguồn: Vụ Chính quyền địa phương).
2.1. Điều chỉnh địa giới hành chính cấp tỉnh
Năm 1989 có thể được xem như khởi đầu của việc các tỉnh được chia tách, tái lập như: tỉnh Nghĩa Bình tách thành 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định; tỉnh Phú Khánh tách thành 2 tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa; tỉnh Bình Trị Thiên tách ra làm 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế.
Tiếp theo, đến năm 1991: tỉnh Hà Sơn Bình tách ra thành 2 tỉnh Hà Tây, Hoà Bình; tỉnh Hà Nam Ninh tách ra thành 2 tỉnh Nam Hà, Ninh Bình; tỉnh Hà Tuyên tách ra thành 2 tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang; tỉnh Hoàng Liên Sơn tách ra thành 2 tỉnh Lào Cai, Yên Bái; tỉnh Nghệ Tĩnh tách ra thành 2 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh; tỉnh Gia Lai-Kon Tum tách ra thành 2 tỉnh Gia Lai, Kon Tum; tỉnh Thuận Hải tách ra thành 2 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận; tỉnh Cửu Long tách ra thành 2 tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh. Thành lập tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, đồng thời giải thể Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo.
Năm 1996, các tỉnh lại được tiếp tục chia tách: tỉnh Bắc Thái tách ra thành 2 tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên; tỉnh Hà Bắc tách ra thành 2 tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh; tỉnh Nam Hà tách ra thành 2 tỉnh Hà Nam, Nam Định; tỉnh Hải Hưng tách ra thành 2 tỉnh Hải Dương, Hưng Yên; tỉnh Vĩnh Phú tách ra thành 2 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc.
Năm 1997: tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tách ra thành thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam; tỉnh Sông Bé tách ra thành 2 tỉnh Bình Dương, Bình Phước; tỉnh Hậu Giang tách ra thành 2 tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng; tỉnh Minh Hải tách ra thành 2 tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau.
Năm 2004: tỉnh Lai Châu tách ra thành 2 tỉnh Lai Châu và Điện Biên; tỉnh Đắk Lắk tách ra thành 2 tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông; tỉnh Cần Thơ tách ra thành thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang.
Ngày 29/5/2008, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan, theo đó hợp nhất toàn bộ tỉnh Hà Tây, chuyển toàn bộ huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình về thành phố Hà Nội.
Hiện nay, Việt Nam có 58 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc Trung ương: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ.
2.2. Điều chỉnh địa giới hành chính cấp huyện
Trong giai đoạn từ năm 1976 đến năm 1986, các đơn vị hành chính cấp huyện ở nước ta được điều chỉnh trên cơ sở sáp nhập lại nhưng đến giai đoạn từ 1986 đến nay, các đơn vị hành chính cấp huyện lại được điều chỉnh chủ yếu theo hướng chia tách và nâng cấp thành đô thị.
Từ năm 1996 đến năm 2006, chỉ trong vòng 10 năm, số đơn vị hành chính cấp huyện đã tăng từ 574 đơn vị lên 673 đơn vị (tăng thêm 99 đơn vị hành chính cấp huyện). Số đơn vị hành chính cấp huyện tăng mạnh ở loại hình thành phố thuộc tỉnh, quận và huyện, riêng thị xã có giảm do nâng cấp một số thị xã lên thành phố thuộc tỉnh. Thành phố thuộc tỉnh có số lượng tăng gần gấp ba lần từ 15 thành phố năm 1996 lên 43 thành phố năm 2006 và số quận tăng gấp hai lần từ 21 quận lên 43 quận, các huyện đã tăng thêm 68 đơn vị. Đến tháng 6/2011, số đơn vị hành chính cấp huyện đã tăng lên 698 đơn vị, và đến tháng 6/2013, Việt Nam có 703 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 60 thành phố thuộc tỉnh, 46 thị xã, 47 quận, 550 huyện như vậy (so với cuối năm 2006 đã tăng thêm 30 đơn vị).
2.3. Điều chỉnh địa giới hành chính cấp xã
Từ khi nước ta bắt đầu tiến hành công cuộc Đổi mới năm 1986, đến cuối những năm 80 và đầu những năm 90, do yêu cầu phân bố lại cơ cấu kinh tế – xã hội, tạo ra và phục hồi các trung tâm kinh tế – văn hoá, xã hội, ngoài ra, do khả năng, điều kiện quản lý hạn chế nên có xu hướng chia tách các xã, nhất là từ năm 1996 việc chia tách các đơn vị hành chính cấp xã đã diễn ra tương đối nhiều.
Tại thời điểm 01/01/1996 cả nước có 10.221 đơn vị hành chính cấp xã (8.862 xã, 856 phường, 503 thị trấn). Đến thời điểm 31/12/2006 có 10.929 đơn vị hành chính cấp xã (9.102 xã, 1.230 phường, 597 thị trấn). Như vậy, số lượng đơn vị hành chính cấp xã đã tăng 708 đơn vị trong 10 năm. Đến tháng 6/2013, số lượng đơn vị hành chính cấp xã là 11.147 (9.052 xã, 1.461 phường, 634 thị trấn). Trong vòng 7 năm, số lượng đơn vị hành chính cấp xã tăng 218 đơn vị, so với giai đoạn 1996 – 2006, tốc độ tăng đã giảm đi nhưng số lượng vẫn gia tăng đáng kể.
Nguồn bài đăng: Một số vấn đề về điều chỉnh địa giới hành chính ở nước ta hiện nay (ThS. Chu Tuấn Tú -Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ)